MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY CÁC BÀI THƠ LÀM THEO THỂ THƠ ĐƯỜNG LUẬT TRONG CHƯƠNG TRÌNH

Tháng Tư 10, 2018 2:22 chiều

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

 

 

 

 

 

 

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

1-Tên đề tài:     “Một số kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy các bài thơ làm theo thể thơ Đường luật trong chương trình Ngữ văn 8”

2-Lĩnh vực áp dụng:    Giảng dạy môn Ngữ văn THCS.

3-Thời gian áp dụng sáng kiến :

Từ năm học 2016 – 2017  đến khi thay đổi chương trình SGK Ngữ văn mới.

4-Người viết:

Họ và tên               :       Tống Thị Quyên

Năm sinh               :         1985

Nơi thường trú      :        Yên Lợi – Ý Yên – Nam Định.

Trình độ chuyên môn:   Cao đẳng sư phạm

Chức vụ công tác  :        Giáo viên.

Nơi làm việc        :       Trường THCS Tân Khánh -Vụ Bản – Nam Định.

Địa chỉ liên hệ     :   Trường THCS Tân Khánh – Vụ Bản – Nam Định.

Điện thoại         :        01682163292

5-Đơn vị áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:

Tên đơn vị       :  Trường THCS Tân Khánh

Địa chỉ liên hệ : Trường THCS Tân Khánh – xã Tân Khánh – huyện Vụ Bản –

tỉnh Nam Định.

 

                                  

                                               

  1. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN :

Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quan điểm của Đảng và nhà nước ta là đổi mới đồng bộ về giáo dục, trong đó có bậc THCS. Việc xây dựng chương trình, biên soạn sách giáo khoa các môn học đổi mới theo tư tưởng tích cực hoá hoạt động của học sinh. SGK Ngữ văn 8 cũng được biên soạn theo nguyên tắc tích hợp ba phân môn Văn – Tiếng Việt – Tập làm văn. Đây là một điều kiện thuận lợi để học sinh từ việc hiểu ý nghĩa của từ, biết dùng từ Hán Việt khi tạo lập văn bản cũng như sử dụng trong ngôn ngữ hàng ngày.

Bản thân là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn  lớp 8 đã qua nhiều năm ,tôi thấy rằng: dạy và học thơ Đường luật là rất khó bởi: Thơ Đường luật phức tạp về các quy định về luật thơ: bằng trắc, đối, niêm, gieo vần, bố cục, nhịp… đặc biệt là có rất nhiều điển tích, điển cố, yếu tố Hán Việt, từ ngữ cổ. Đây cũng là sự  băn khoăn, trăn trở của rất nhiều đồng nghiệp của tôi khi giảng dạy thơ Đường luật ở  khối lớp này.

Qua thực tiễn giảng dạy và qua trao đổi với một số giáo viên có kinh nghiệm trong trường, tôi thấy nếu được sự dẫn dắt, gợi ý của giáo viên một cách có nghệ thuật thì học sinh sẽ rất hào hứng để cảm nhận được cái hay, cái đẹp của thơ Đường luật. Vì qua đó, các em sẽ rút ra rất nhiều điều bổ ích, từ việc hiểu biết, tích lũy, làm giàu vốn từ ngữ Hán Việt đến việc hiểu và cảm nhận được thế giới quan, nhân sinh quan thấm thía tinh thần nhân văn cao cả của các thi sĩ. Do đó tôi đã chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy các bài thơ làm theo thể thơ Đường luật trong chương trình Ngữ văn 8”.

  1. MÔ TẢ GIẢI PHÁP

1.Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:

Những tác phẩm thơ làm theo thể Đường luật được đưa vào chương trình giảng dạy ở lớp 8 đã được các nhà soạn sách nghiên cứu chọn lọc khá kỹ với những tác phẩm tiêu biểu của các nhà thơ cách mạng giai đoạn đầu thế kỉ XX. Đó là những bài thơ thực sự có giá trị về nội dung và nghệ thuật  trong kho tang văn học của dân tộc. Song, trong quá trình giảng dạy, giáo viên vẫn còn cảm thấy lúng túng, chưa nhất quán trong phương thức giảng dạy. Bởi vì thời gian dành cho một số tác phẩm có lẽ còn hạn hẹp nên giáo viên cần phải trăn trở, lựa chọn dung lượng truyền thụ sao cho phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, phù hợp với thời gian theo phân phối chương trình. Chất lượng học tập môn Ngữ văn đối với mảng thơ làm theo thể Đường luật nhìn chung chưa cao, vì khi tiếp xúc với những tác phẩm này, học sinh THCS quá bỡ ngỡ với cách nghĩ cách cảm nhận của các nhà thơ sống cách

 

các em hàng thế kỉ. Nhất là cách diễn đạt ngôn ngữ cổ, bằng những từ Hán Việt ít được dùng và phổ biến trong thời đại ngày nay.

Qua kết quả khảo sát cho thấy: dù khảo sát ở thời điểm nào, kết quả học tập cũng rất thấp, ít em cảm nhận được cái hay của thơ Đường luật . Sự cảm nhận của học sinh rất nông cạn, đa số chỉ nêu được đề tài nói đến trong bài thơ và một khía cạnh nội dung rất nhỏ, còn nghệ thuật và đặc điểm cơ bản thơ Đường luật như nghệ thuật đối, bố cục, cách gieo vần ngắt nhịp, dấu hiệu nhận biết thể thơ, và cách khai thác hình ảnh từ ngữ trong thơ Đường luật hầu như các em còn rất bỡ ngỡ. Nhiều học sinh vốn từ rất hạn chế, dùng từ mà không hiểu nghĩa nhất là nghĩa của các từ Hán Việt. Chính vì thế bản thân tôi là giáo viên luôn trăn trở trước kết quả giảng dạy thơ Đường luật cho nên từ hạn chế của học sinh cũng như của giáo viên khi dạy và học về thơ Đường luật tôi xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến của mình về vấn đề khai thác thơ Đường luật như thế nào cho hiệu quả.

  1. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:

 2.1.Cơ sở lý luận của vấn đề:

   2.1.1.Cơ sở lý thuyết thể loại thơ trữ tình:

Các bài thơ làm theo thể Đường luật trong chương trình ngữ văn 8 đều là các tác phẩm trữ tình với đặc điểm chung là :

a.Tác phẩm trữ tình biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người.

Nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng là sự biểu hiện thế giới chủ quan của con người trước cuộc đời. Tuy nhiên, do phương thức tổ chức, do kiểu tái hiện đời sống và do sự giao tiếp nghệ thuật khác nhau nên sự biểu hiện đó ở những loại tác phẩm văn học cũng khác nhau. Trong tác phẩm trữ tình; tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ … được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu của tác phẩm. Ở đây, nhà thơ có thể biểu hiện cảm xúc cá nhân mình mà không cần kèm theo bất cứ một sự miêu tả biến cố, sự kiện nào.

      b.Tác phẩm trữ tình phản ánh thế giới khách quan nhằm biểu hiện thế giới chủ quan.

Tác phẩm trữ tình biểu hiện cảm xúc chủ quan của nhà thơ nhưng điều đó cũng được xác lập trong mối quan hệ giữa con người và thực tại khách quan bởi vì mọi cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của con người bao giờ cũng đều là cảm xúc về cái gì, tâm trạng trước vấn đề gì…Do đó, hiện tượng cuộc sống vẫn được thể hiện trong tác phẩm trữ tình.

 

 

c.Tình cảm điển hình trong tác phẩm trữ tình.

Tác phẩm trữ tình bao giờ cũng mang đậm dấu ấn riêng của nhà thơ. Ðó là những nỗi niềm chủ quan thầm kín nhưng khi sáng tác nhà thơ luôn luôn nâng mình lên thành người mang tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ cho một loại người, một thế hệ và cả những chân lí phổ biến…Người ta thường nói đến từ chân trời của cái “tôi” đến chân trời của cái “ta”, “từ chân trời của một người đến chân trời của tất cả” cũng trên ý nghĩa này. Biêlinnki đã diễn đạt điều đó bằng một câu nói hàm súc: “Bất cứ thi sĩ nào cũng không thể trở thành vĩ đại nếu chỉ do ở mình và miêu tả mình – dù là miêu tả những nỗi đau của mình hay những hạnh phúc của mình. Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ đại là vì những đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ khoảng sâu thẳm của lịch sử xã hội, bởi vì họ là khí quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và của nhân loại”.

d.Nhân vật trữ tình trong tác phẩm trữ tình

Nội dung tác phẩm trữ tình gắn liền với hình tượng nhân vật trữ tình ( có người gọi là chủ thể trữ tình). Nhân vật trong tác phẩm trữ tình là đối tượng để nhà thơ gửi gắm tâm sự, cảm xúc, suy nghĩ …của mình, là nguyên nhân trực tiếp khêu gợi nguồn cảm hứng cho tác giả. Nhân vật trữ tình không phải là đối tượng để nhà thơ miêu tả mà chính là những cảm xúc, ý nghĩ, tình cảm, tâm trạng, suy tư…về lẽ sống và con người được thể hiện trong tác phẩm. Khi đọc một bài thơ, trước mắt chúng ta không chỉ xuất hiện những cảnh thiên nhiên, sinh hoạt, những con người mà còn một hình tượng của một ai đó đang ngắm nhìn, rung động, suy tư về chúng, về cuộc sống nói chung. Hình tượng ấy chính là nhân vật trữ tình. Ðó là tâm hồn, nỗi niềm, tấm lòng…mà người đọc cảm nhận được qua tác phẩm thơ ca.

Phần lớn nhân vật trữ tình xuất hiện với tư cách là những tình cảm, tâm trạng, suy tư… của chính bản thân nhà thơ. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp nhân vật trữ tình không phải là hiện thân của tác giả. Do tính chất tiêu biểu, khái quát của nhân vật trữ tình nên nhà thơ có thể tưởng tượng, hóa thân vào đối tượng để xây dựng nhân vật trữ tình theo qui luật điển hình hóa trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể coi đây là những nhân vật trữ tình nhập vai.

  1. Lời văn trong tác phẩm trữ tình.

Là hình thức của tác phẩm văn học, lời thơ cũng như lời của tác phẩm tự sự và kịch đều mang tính chính xác, gợi cảm, hình tượng, hàm súc. Tuy nhiên, lời thơ cũng có những đặc điểm riêng.

Trước hết, đó là lời của chủ thể, thường bộc lộ trực tiếp sự đánh giá, nhận xét về đối tượng, trực tiếp thể hiện cảm xúc ca ngợi, khẳng định hoặc phê phán, phủ định. Chính vì vậy, sự lựa chọn từ ngữ, phương thức tu từ trong tác phẩm trữ tình – chủ

 

 

yếu là trong thơ – luôn luôn nhằm làm cho nội dung cảm xúc, thái độ đánh giá, sự đồng cảm hoặc phê phán của chủ thể trở nên nổi bật.

Lời văn trong tác phẩm trữ tình đòi hỏi bộc lộ những tình cảm mạnh mẽ, những ý tập trung, hàm súc do đó nó phải tìm cho mình những lời văn phù hợp với yêu cầu gây ấn tượng mạnh, không phải chỉ bằng ý nghĩa của từ mà còn bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ nữa. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người khẳng định đặc điểm quan trọng nhất của lời văn trong tác phẩm trữ tình là giàu nhạc tính. Nhạc tính này, do đặc điểm ngôn ngữ của từng dân tộc, được biểu hiện khác nhau. Trong thơ Việt Nam, tính nhạc thường được biểu hiện ở các mặt: sự cân đối, trầm bỗng, nhịp nhàng và trùng điệp.

  2.1.2.Thể thơ Đường luật:

Để có thể giảng dạy tốt thơ Đường luật thì bản thân mỗi giáo viên phải hiểu được nguồn gốc của thơ Đường luật và đặc điểm nghệ thuật của thơ Đường luật:

   a.Nguồn gốc:

Ở Trung Quốc, trước đời Đường (618 – 907 ) thơ chỉ cần có vần là được. Từ đời Đường trở đi, người ta bày ra niêm, luật, đối chặt chẽ cho thơ. Đó là thơ Đường luật cũng còn gọi là “cận thể” để phân biệt với thơ không cần luật trước đó là thơ “cổ phong”. Như vậy thơ Đường luật  đó là thể thơ được làm theo luật đặt ra từ thời nhà Đường ở Trung Quốc ( 618 – 907 ) có quy định chặt chẽ về luật thơ, số câu, số chữ, cách gieo vần, cách ngắt nhịp.

Thơ Đường là đỉnh cao của thơ ca cổ điển Trung Quốc, là thời đại hoàng kim của thơ ca cổ điển phương Đông. Chính vì thế mà ở Việt Nam, từ đời Lý trở về sau, thơ Đường được ông cha ta tiếp thu rất nhiều. Có thể nói rằng các bài thơ làm theo thể Đường luật chiếm vị trí độc tôn trong thời kì khá dài của văn học Việt Nam – nhất là thơ thời trung đại.

  1. Đặc điểm  thể thơ Đường luật:

Trong chương trình ngữ văn THCS, thể thơ Đường luật chủ yếu là thể thơ thất ngôn tứ tuyệt và thể thơ thất ngôn bát cú.

    b1-Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật:

Số câu, chữ: Mỗi bài thơ gồm có 8 câu, mỗi câu có 7 chữ. Tổng cộng bài thơ làm theo đúng luật gồm 56 chữ (tiếng).

Về luật bằng trắc: Luật là luật của tiếng trong câu thơ, chữ nào phải luật bằng ( B) , chữ nào phải luật trắc ( T ) nên gọi là âm luật hay luật bằng trắc. Các tiếng có dấu huyền và không dấu là thanh bằng,các tiếng có dấu sắc, hỏi, ngã, nặng là thanh trắc. Một bài thơ theo luật bằng hay luật trắc là tùy theo chữ thứ hai của câu số một

 

là bằng hay trắc. Nếu chữ thứ hai ở câu số một ( gọi là câu phá ) là một tiếng bằng thì người ta gọi là một bài thơ phá bằng, nếu trắc là phá trắc.

Thể thơ này có một quy định bắt buộc phải tuân theo là:

“ Nhất tam ngũ bất luận,

Nhị tứ lục phân minh”

Nghĩa là ở mỗi câu thơ, các tiếng đứng ở vị trí thứ nhất, thứ ba và thứ năm không cần bàn đến ( có thể bằng hoặc trắc), còn các tiếng nằm ở vị trí thứ hai, thứ tư, thứ sáu thì phải có sự phân biệt rõ rang.  Nếu chữ thứ hai là thanh bằng thì những chữ tư phải là thanh trắc , chữ thứ sáu phải là bằng và ngược lại:

2    4      6

B    T     B

T     B      T

Nếu làm khác đi là thất luật.

Về đối ngẫu: Đối là biện pháp tu từ sóng đôi giữa tiếng với tiếng, câu với câu làm tăng hiệu quả diễn đạt của ngôn từ tạo sự tương đồng hoặc tương phản. Với thể thơ này, đối thực hiện ở bốn câu giữa (phần thực, phần luận), gồm đối ý, đối thanh và đối từ loại.

Về niêm: “ Niêm” có nghĩa là dính với nhau. Nếu luật là quy định bằng trắc theo chiều ngang, thì niêm là quy định bằng trắc theo chiều dọc để gắn liền các cặp câu lại và tránh đơn điệu. Do có luật “ Nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh” nên người ta chỉ quy định tiếng thứ hai ở câu 1 phải cùng thanh với tiếng thứ hai ở câu 8, tiếng thứ hai ở câu hai phải cùng thanh với tiếng thứ hai ở câu 3, tiếng thứ hai ở câu 4 phải cùng thanh với tiếng thứ hai ở câu 5, tiếng thứ hai ở câu 6 phải cùng thanh với tiếng thứ hai ở câu 7.

Tóm lại, niêm là tiếng thứ hai của các câu sau đây phải cùng thanh:

1 – 8;  2 – 3;   4 – 5;    6 – 7   . Nếu làm sai quy định này gọi là thất niêm.

Về gieo vần: Cả bài thơ chỉ có một vần ( độc vận ) gieo ở cuối các câu 1. 2. 4. 6. 8 . Căn cứ tiếng cuối cùng trong câu thơ thứ nhất, nếu tiếng này là thanh bằng thì bài thơ gieo vần bằng và ngược lại.

Nhịp : trong câu thơ thất ngôn Đường luật là 4/ 3.

Về bố cục: Một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật có bố cục gồm bốn phần :  Đề, thực, luận, kết. Mỗi phần có một nhiệm vụ khác nhau.

Phần đề ( cặp câu 1 – 2 ) nêu một cách tổng quát chủ đề tư tưởng của bài thơ.

Phần thực ( cặp câu 3 – 4 ) trình bày thực trạng, thực chất của vấn đề , của sự vật được nói đến.

Phần luận ( cặp câu 5 – 6 ) bình luận vấn đề, giải thích sự vật để bổ sung ý nghĩa cho cặp câu thực.

Phần kết ( cặp câu 7 – 8 ) là phần tóm tắt ý nghĩa toàn bài, bộc lộ cảm nghĩ của nhân vật trữ tình trong bài thơ.

   b2- Đặc điểm của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật :

– Số lượng câu chữ: Một bài thơ làm theo thể thơ này bao gồm có bốn câu thơ, mỗi câu có bảy tiếng(chữ). Tổng cộng cả bài thơ là hai mươi tám tiếng.

– Luật bằng trắc,đối, niêm:Về cơ bản cũng giống như thể thơ thất ngôn bát cú.Tuy nhiên có một điểm khác là thể thơ này thường sử dụng tiểu đối (Đối trong cùng một câu thơ).

Về niêm thì các cặp câu niêm với nhau là: 1-4;2-3.

– Gieo vần: Tiếng cuối cùng trong câu thơ 1-2-4 hiệp vần với nhau.

– Bố cục: Một bài thơ làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt bao gồm 4 phần, mỗi phần ứng với một câu thơ và mang nhiệm vụ riêng.

Câu thơ thứ nhất :  Khai đề.

Câu thơ thứ hai :    Thừa đề.

Câu thơ thứ ba   :   Chuyển đề.

Câu thơ thứ tư    :   Hợp đề.

2.2.Một số giải pháp cụ thể  khi dạy các tác phẩm viết theo thể thơ

Đường luật.

    Qua quá trình giảng , với những kinh nghiệm của bản thân, tôi xin đưa ra mấy kinh nghiệm nhỏ như sau:

 2.2.1. Khi dạy thơ Đường, GV cần chú ý hướng dẫn HS đọc diễn cảm các từ cần đọc nhấn (chủ yếu là các từ gieo vần với nhau). Chính cách đọc đúng, đọc diễn cảm này đã giúp học sinh bước đầu cảm nhận nhanh bài thơ hơn. Hướng dẫn học sinh cách đọc ngay khi dặn dò học sinh soạn bài, chuẩn bị bài, giúp các em định hướng bài tốt hơn.

 2.2.2.Cần phải tái hiện cho học sinh hiểu và cảm nhận được  hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.

Các bài thơ làm thể thơ này trong chương trình ngữ văn 8 là “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác”, “Đập đá ở Côn Lôn”, “Tức cảnh Pác Bó”, “Vọng nguyệt”.

 

 

Hoàn cảnh ra đời có ảnh hưởng rất lớn đến nội dung tư tưởng – ý nghĩa của bài thơ. Do đó người giáo viên khi giảng dạy cần hết sức chú ý đến khâu này.

Chẳng hạn, khi dạy bài thơ “Ngắm trăng” (Vọng nguyệt), giáo viên phải cho học sinh thấy rõ bài thơ rút ra từ tập thơ “Nhật kí trong tù” được Bác sáng tác khi bị đày ải, giải tới, giải lui hơn 30 nhà lao của 13 huyện tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, với tựa đề ngoài bìa tập thơ:

Thân thể ở trong lao

Tinh thần ở ngoài lao

Muốn nên sự nghiệp lớn

Tinh thần càng phải cao.

GV có thể hỏi: Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt nào ? Với hoàn cảnh ra đời đó của bài thơ góp phần thể hiện rõ phẩm chất gì của tác giả?

Học sinh sẽ trình bày được hoàn cảnh ra đời của bài thơ.Từ đó rút ra nhận xét: Dù trong hoàn cảnh tù ngục gian khổ nhưng người tù – thi gia vẫn yêu thiên nhiên tha thiết với một phong thái ung dung (Sự vượt ngục về tinh thần).

    Hoặc khi dạy bài “ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” ( Phan Bội Châu ) ( Ngữ văn 8/ tập I ) để giúp học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của những chí sỹ yêu nước đầu thế kỷ XX, những người mang chí lớn cứu nước, cứu dân dù họ có ở bất cứ hoàn cảnh nào vẫn luôn giữ được phong thái ung dung, khí phách hiên ngang, bất khuất và niềm tin không dời đổi vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chính vì thế mà việc cho học sinh xác định hoàn cảnh ra đời của bài thơ là điều cần thiết.

Với bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” giáo viên phải cho học sinh thấy được: Đây là bài thơ tức cảnh, tức cảnh sinh tình, do cảnh mà nảy tứ. Bài thơ làm vào tháng hai, tức là mùa xuân, cảnh núi rừng Việt Bắc hẳn là đẹp. Nhưng thơ Bác chủ yếu nói về cảnh sinh hoạt. Cảnh sinh hoạt của Bác hồi này thì thật là khổ cực thiếu thốn: trời rét, người yếu, phải ở trong một cái hang nhỏ hẹp, khuất kín, ẩm ướt và rất cheo leo, ra vào, lên xuống khó khăn gọi là hang, thực ra chỉ là một cái hốc lớn, tên thật là Cốc Bó ( Thuộc vùng núi Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng). Ban đêm, Bác ngủ trong hang, bắc gióng, lát sàn, trải ổ, sáng ra có khi thấy rắn rết bò vào. Lúc này cơ sở cách mạnh chưa rộng, đồn giặc ở gần, không thể đốt lửa sưởi ấm một cách thoải mái được. Ban ngày, Bác làm việc trên bờ một con suối – Bác đặt tên là suối Lênin, ở đây Bác tìm được một tảng đá lớn, phẳng, vững chãi để làm bàn. Đằng sau lại có một bệ ngồi khá thuận tiện. Hồi này Bác ăn uống cũng kham khổ lắm: hàng tuần chỉ được vài bữa cơm, còn thì toàn cháo ngô, rau măng, đọt bí…Vài ngày một lần, Bác lại cùng một chú liên lạc lội suối mò ốc về cải thiện bữa ăn. Cảnh sinh hoạt thì khổ như thế đấy,  nhưng cũng kể thật độc đáo. Cuộc đời

 

cách mang của Bác cho đến lúc bấy giờ đã trải qua ba mươi năm, biết bao gian khổ, biết bao chuyện ly kỳ, nhưng chắc chưa bao giờ có cảnh sống “lạ” như thế. Có lẽ một buổi sáng nào đấy, Bác đứng trước cái bàn đá bên bờ suối, ngẫm nghĩ thấy cuộc đời cách mạng của mình ở đây cũng “lạ” cũng “hay”, bèn tức cảnh đọc mấy vần thơ này.

 2.2.3. Cần cho học sinh tìm hiểu kĩ phần giải thích từ.

Như chúng ta đã biết, đa số các bài thơ làm theo thể Đường luật trong chương trình Ngữ văn 8 có sử dụng nhiều yếu tố Hán Việt nên việc tiếp cận văn bản học sinh rất là bỡ ngỡ và dường như không hiểu nên không có hứng thú và rất sợ học những bài thơ này. Một lý do rất dễ hiểu đó là vốn từ vựng Hán Việt của học sinh rất nghèo nàn. Bên cạnh đó một thực tế đã từng xảy ra có một số giáo viên khi dạy những bài thơ Đường luật chỉ lo chăm chú khai thác nội dung phần dịch thơ mà không cho học sinh giải nghĩa các yếu tố Hán Việt ( có nghĩa là giáo viên đã bỏ qua khâu tìm hiểu chú thích giải nghĩa các yếu tố Hán Việt đã có trong SGK ) vì nghĩ rằng phần chú thích không quan trọng miễn làm sao cho học sinh hiểu được phần dịch thơ. Đây là một sai lầm lớn khi dạy các bài thơ Đường luật bằng chữ Hán. Vì nếu học sinh không giải nghĩa được các yếu tố Hán Việt có trong các câu thơ của bài thì việc nắm bắt nội dung của bài thơ chỉ là  học vẹt theo sự áp đặt của giáo viên mà thôi. Mà như thế thì học sinh sẽ rất nhanh quên và không có kỹ năng nào để phân tích một bài thơ Đường luật. Cho nên theo suy nghĩ của bản thân tôi nhận thấy khi ta dạy một bài thơ Đường luật viết bằng chữ Hán thì việc cho học sinh tìm hiểu chú thích phần giải nghĩa của các yếu tố Hán Việt là điều cần thiết nên làm vừa có tác dụng giúp học sinh chủ động tìm hiểu kiến thức, nắm chắc và có chiều sâu kiến thức nhưng đồng thời bồi dưỡng vốn từ Hán Việt cho học sinh làm phong phú thêm vốn từ cho các em và từ việc hiểu nghĩa của từ, các em bước đầu vận dụng từ Hán Việt trong thực hành giao tiếp và trong việc tạo lập văn bản . Như vậy đó chính là sự tích hợp giữa phân môn văn với tiếng Việt.

  2.2.4.Cần phải so sánh đối chiếu nguyên tác với bản dịch nghĩa, bản dịch thơ

Thực tế trong quá trình giảng dạy có nhiều khi giáo viên không chú ý đến khâu này, mà chỉ dựa vào phần dịch thơ để hướng dẫn học sinh khai thác mà quên đi hoặc dạy chỉ hời hợt. Bởi lẽ không phải bài thơ Đường luật nào bằng chữ Hán cũng có phần dịch thơ sát nghĩa với phần phiên âm. Ví dụ như : Văn bản “ Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh ( Ngữ văn 8- tập II ). Ở phần phiên âm câu thơ thứ hai trong bài thơ:

“ Đối thử lương tiêu, nại nhược hà”

( Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào? )

 

 

Nhưng ở bản dịch thơ “ Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ” đã biến thành câu trần thuật đã làm mất đi cái xốn xang, cái bối rối được thể hiện ở lời tự hỏi “ nại nhược hà” ( biết làm thế nào ?) mà chính cái đó mới cho ta thấy được tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm của Bác trước thiên nhiên. Dịch là “khó hững hờ”  thì lại cho thấy nhân vật trữ tình quá bình thản, thậm chí có phần hững hờ, chứ không còn sự rung động mạnh mẽ như trong nguyên tác. Nếu giáo viên dạy bài này mà không cho học sinh so sánh giữa bản dịch thơ với phần phiên âm thì sẽ không làm nổi bật được ý nêu trên mà như thế thì không đủ sức đi đến kết luận phẩm chất của người tù Hồ Chí Minh là một người yêu thiên nhiên tha thiết dù trong hoàn cảnh tù ngục.

Không chỉ ở câu thơ thứ hai mà ở câu thơ thứ ba và thứ tư bản dịch thơ cũng chưa thể hiện rõ được ý đồ của bản phiên âm:

Ở bản phiên âm: “ Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt

Nguyệt tòng song khích khán thi gia ’’.

Hai câu thơ trên có kết cấu đăng đối đáng chú ý, đối trong từng câu và đối hai câu với nhau. Ở mỗi câu, chữ chỉ người  ( nhân, thi gia ) và chữ chỉ trăng ( nguyệt ) đặt ở hai đầu, ở giữa là cửa nhà tù (song ). Hình ảnh cái song sắt biểu tượng cho sức mạnh tàn bạo và lạnh lùng của nhà tù sừng sững ngăn cách giữa người tù và vầng trăng cũng trở nên bất lực vô hiệu hóa trước sự giao hòa tuyệt đối giữa Bác với vầng trăng.

Nhưng ở câu thơ dịch : “ Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ” làm mất đi cấu trúc đăng đối, không còn thâý hình ảnh song sắt tàn bạo của nhà tù chắn giữa vầng trăng và Bác. Như vậy thì nó không còn rõ được sự giao cảm tuyệt diệu giữa Bác và trăng, đồng thời cũng chưa đủ sức khái quát đây là một cuộc vượt ngục về tinh thần của Hồ Chí Minh . Đồng thời chữ “khán”dịch là “Nhòm” thì không được nhã cho lắm.

  2.2.5. Chú ý phân tích giá trị nghệ thuật của bài thơ qua các phép đối:

Ví dụ trong bài “Đập đá ở Côn Lôn” ( Ngữ văn 8/ tậpI ) giáo viên có thể hướng cho học sinh khai thác nghệ thuật đối ở cặp câu thực và câu luận:

Cặp câu thực:  “Xách búa đánh tan, năm bảy đống

Ra tay đập bể , mấy trăm hòn”

Gv hỏi học sinh: Hãy chỉ ra các biểu hiện của phép đối và cho biết phép đối này có tác dụng như thế nào?

Trên cơ sở phát hiện của học sinh,giáo viên khái quát bằng máy chiếu:

Đối thanh : Hệ thống thanh điệu câu trên đối lại hệ thống thanh điệu ở câu dưới.

 

Xách búa đánh tan, năm bảy đống

T    T      T     B       B     T      T

Ra tay đập bể ,mấy trăm hòn

B    B    T   T     T     B    B

Đối về từ loại:

Xách búa – Ra tay : Động từ

Đánh tan – 0Đập bể  :Tính từ

Năm bảy – mấy trăm : số từ

Đống – hòn      :   Danh từ

2.2.6. Khi phân tích cần lựa chọn cách phân tích cho phù hợp với nội dung của bài thơ.

Thông thường là trong tiết giảng thơ Đường luật trên lớp GV hay phân tích cắt ngang theo bố cục ( đối với bài thơ tứ tuyệt gồm có bốn phần: khai – thừa -chuyển – hợp ; đối với bài thơ bát cú cũng có bố cục bốn phần gồm: đề – thực -luận – kết ) . Nếu giáo viên trong quá trình giảng dạy bài thơ Đường Luật nào cũng phân tích theo bố cục trên thì có lúc sẽ rơi vào chỗ gượng ép, khiên cưỡng.

Thực tế sáng tác, không phải bài thơ nào cũng có kết cấu bốn phần một cách cứng nhắc như vậy. Do đó khi phân tích kết cấu của một bài thơ Đường luật phải bám sát vào thực tế của văn bản, không nên áp đặt cái khuôn bốn phần đó vào bất cứ bài theo bố cục đề – thực – luận – kết hoặc bài thơ tứ tuyệt nào cũng phải phân tích theo bố cục khai – thừa – chuyển -0 hợp mà giáo viên cần phải linh hoạt để làm nổi bật nội dung của bài thơ.

Ví dụ :Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” chúng ta có thể phân tích theo hướng mạch cảm hứng của nhà thơ:

-Hai câu thơ đầu:Cảm hứng về thú lâm tuyền của Bác.

-Hai câu thơ cuối :Cảm hứng về cuộc đời cách mạng của Bác.

Tóm lại phân tích văn bản theo cách nào là tùy thuộc vào thực tế của văn bản không nên rập khuôn một cách máy móc, miễn là làm sao phải làm nổi bật được cái thần thái của bài thơ.

 2.2.7.Khi phân tích cần chú ý đến thế giới quan,tình cảm của chủ thể trữ tình.

Trong tác phẩm trữ tình, nhà thơ trực tiếp bộc lộ những tình cảm yêu thương, căm giận của mình trước hiện thực cuộc đời. Ở đây, tình cảm riêng tư của nhà thơ bao giờ cũng giữ vai trò quan trọng tạo nên giá trị của tác phẩm.  Những tác phẩm

 

trữ tình có giá trị được người đọc yêu mến xưa nay bao giờ cũng thắm đẫm suy tư của cá nhân nhưng đồng thời cũng đánh động tình cảm, tâm trạng …của cả một lớp người, một thời đại nhất định. Vì vậy khi phân tích giáo viên cần chú ý liên hệ với những hiểu biết về tác giả để học sinh thấy được quan niệm nhân sinh của họ thể hiện như thế nào trong tác phẩm. Chẳng hạn khi tìm hiểu bài thơ “Ngắm trăng” ta phải thấy phong cách thơ Bác, phải thấy Bác Hồ là con người của thời đại mới, của tương lai.

Và chất thép biểu hiện trong bút pháp trữ tình, bản chất chiến sỹ lồng trong hình tượng thi sĩ. Người chiến sĩ đấu tranh cho độc lập của Việt Nam diễn  đạt ý nghĩ, cảm xúc của mình bằng hình ảnh một cách tự nhiên, với cốt cách của một thi nhân. Ở Bác, con người cách mạng cộng sản và con người nghệ sỹ kiểu mới là một. Chất thép đi với tính trữ tình, người chiến sỹ gắn với nhà thơ vốn có nguồn gốc từ bản chất nhân sinh quan cộng sản. Thép là chiến sĩ, tình là chất thơ. Bác Hồ là một tâm hồn nghệ sĩ lớn

 2.2.8.Vận dụng phương tiện hiện đại như ứng dụng công nghệ thông tin.                                 .    Trong  một giờ giảng văn nói chung và một giờ giảng văn về thơ Đường luật nói riêng ta cần sử dụng công nghệ thông tin như thế nào để đạt hiệu quả thì đó cũng là một vấn đề hết sức lưu ý.

Giáo viên khi soạn bài cần phải xác định nội dung nào cần trình chiếu và quan trọng là phải trình chiếu vào lúc nào cho phù hợp. Trình chiếu thì nó mang lại hiệu quả như thế nào trong giờ học.

Ví dụ khi dạy bài “Ngắm trăng”thì giáo viên cần phải đưa toàn bộ bản nguyên tác, bản dịch nghĩa và bản dịch thơ lên màn chiếu vì phần này phục vụ trực tiếp việc học sinh so sánh đối chiếu giữa bản dịch thơ và nguyên tác để làm nổi bật được nội dung , dụng ý của tác giả nếu trong bản dịch thơ dịch chưa sát nghĩa.

2.3.Áp dụng các phương pháp vào một bài giảng cụ thể

 

 BÀI 20

   Tiết 81: Văn bản:         TỨC CẢNH PÁC BÓ

                                                               (Hồ Chí Minh)

  1. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT: Giúp HS.

Bước đầu biết đọc – hiểu một tác phẩm thơ tiêu biểu của nhà thơ – chiến sĩ Hồ Chí Minh. Thấy được nghệ thuật độc đáo và vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh trong bài thơ.

 

 

  1. Kiến thức: Một đặc điểm của thơ Hồ Chí Minh: sử dụng thể loại thơ tứ tuyệt thể hiện tinh thần hiện đại của người chiến sĩ cách mạng. Cuộc sống vật chất và tinh

thần của Hồ Chí Minh trong những năm tháng họat động cách mạng đầy khó khăn, gian khổ qua một bài thơ được sáng tác trong những ngày tháng cách mạng chưa thành công.

  1. Kĩ năng: Đọc – hiểu thơ tứ tuyệt của Hồ Chí Minh. Phân tích được những chi tiết nghệ thuật tiêu biểu trong tác phẩm.
  2. CHUẨN BỊ:
  3. Giáo viên:– Xem sgk, sgv, sbt, thiết kế bài giảng.

– Tìm hiểu thêm các bài thơ về thiên nhiên của Bác.

– Soạn giáo án.

-Máy chiếu.

  1. Học sinh: – Xem sgk, sbt.

– Trả lời câu hỏi tìm hiểu bài.

– Tìm hiểu thêm về thơ Bác trong giai đoạn này.

  1. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY-HỌC:
  2. Ổn định lớp:
  3. Kiểm tra bài cũ:
  4. Bài mới: GV Giới thiệu bài : Năm 1911 từ bến cảng Nhà Rồng, thầy giáo Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước. Sau hơn 30 năm bôn ba hải ngoại người trở  về trong nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước, người sống và làm việc tại Cao Bằng. Bài thơ TCPB ra đời vào thời gian này. Để hiểu rõ cảm xúc của Bác lúc này, cô trò chúng ta cùng tìm hiểu bài thơ.

 

Hoạt động của thầy và trò Néi dung
GV : Bằng các kiến thức đã học, hãy nêu những nét chính về tác giả HCM ?

GV : Nªu hoµn c¶nh s¸ng t¸c bµi th¬ ?

Hs : Trả lời

GV: Đây là bài thơ tức cảnh, tức cảnh sinh tình, do cảnh mà nảy tứ. Bài thơ

làm vào tháng hai, tức là mùa xuân, cảnh núi rừng Việt Bắc hẳn là đẹp. Nhưng thơ Bác chủ yếu nói về cảnh sinh hoạt. Cảnh sinh hoạt của Bác hồi này thì thật là khổ cực thiếu thốn: trời rét, người yếu, phải ở trong một cái hang nhỏ hẹp, khuất kín, ẩm ướt và rất cheo leo, ra vào, lên xuống khó khăn gọi là hang, thực ra chỉ là một cái hốc lớn, tên thật là Cốc Bó ( Thuộc vùng núi Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng). Ban đêm, Bác ngủ trong hang, bắc gióng, lát sàn, trải ổ, sáng ra có khi thấy rắn rết bò vào. Lúc này cơ sở cách mạng chưa rộng, đồn giặc ở gần, không thể đốt lửa sưởi ấm một cách thoải mái được. Ban ngày, Bác làm việc trên bờ một con suối- Bác đặt tên là suối Lênin, ở đây Bác tìm được một tảng đá lớn, phẳng, vững chãi để làm bàn. Đằng sau lại có một bệ ngồi khá thuận tiện. Hồi này Bác ăn uống cũng kham khổ lắm: hàng tuần chỉ được vài bữa cơm, còn thì toàn cháo ngô, rau măng, đọt bí…Vài ngày một lần, Bác lại cùng một chú liên lạc lội suối mò ốc về cải thiện bữa ăn. Cảnh sinh hoạt thì khổ như thế đấy, nhưng cũng kể thật độc đáo. Cuộc đời cách mang của Bác cho đến lúc bấy giờ đã trải qua ba mươi năm, biết bao gian khổ, biết bao chuyện ly kỳ, nhưng chắc chưa bao giờ có cảnh sống “lạ” như thế. Có lẽ một buổi sáng nào đấy, Bác đứng trước cái bàn đá bên bờ suối, ngẫm nghĩ thấy cuộc đời cách mạng của mình ở đây cũng “lạ” cũng “hay”, bèn tức cảnh đọc mấy vần thơ này.

GV: Chốt trên máy chiếu ý chính.

GV: Hướng dẫn cách đọc:Chú ý cách ngắt nhịp, giọng thoải mái thể hiện tâm trạng sảng khoái.

– Đọc

– Gọi hs đọc.

Hs : Đọc

Gv: Gäi hs gi¶i thÝch từ khó.

GV: Bµi th¬ viÕt theo thÓ th¬ nµo? Nêu những nét khái quát về thể thơ này đồng thời nêu mét sè bµi th¬ kh¸c cña B¸c viÕt theo thÓ th¬ nµy?

–         C¶nh khuya

–          Nguyªn tiªu…

 

GV: Bµi th¬ cã thÓ chia lµm mÊy phÇn? Nêu nội dung của từng phần?

 

 

 

 

 

 

 

GV: Giải thích : tức cảnh là người làm thơ nhân một sự việc, cảnh tượng nào đó mà cảm hứng làm thơ thì gọi là thơ tức cảnh. Từ đó em hiểu như thế nào về nhan đề bài thơ?

HS: Khi Bác ngắm cảnh vật ở Pác Bó, Bác có cảm xúc, nảy ra ý thơ , lời thơ.

GV: Bật MC hình ảnh hang Pác Bó.

GV: Gọi hs đọc câu thứ nhất.

GV: Trong c©u th¬ nµy t¸c gi¶ ®· sö dụng biện pháp nghệ thuật nµo?

HS: Tr¶ lêi:

GV: NhËn xÐt c¸ch ng¾t nhÞp cña c©u th¬?

GV: Qua phÐp ®èi vµ c¸ch ng¾t nhÞp ®· diÔn t¶ nÕp sèng vµ lµm viÖc cña B¸c ntn?

GV: C©u th¬ cã giäng ®iÖu nh­ thÕ nµo?

Gv: Thùc tÕ cuéc sèng ë hang P¸c Bã v« cïng khã kh¨n gian khæ. Nh÷ng khi trêi m­a to r¾n rÕt chui c¶ vµo chç n»m. Cã ®ªm B¸c thøc dËy thÊy mét con r¾n lín n»m c¹nh. ThÕ mµ giäng ®iÖu c©u th¬ tho¶i m¸i ph¬i phíi . Qua ®ã em cã c¶m nhËn g× vÒ phong th¸i cña B¸c?

HS: Tr¶ lêi

GV: Chèt,ghi b¶ng

Em cã nhËn xÐt vÒ c¸ch sèng cña B¸c ?

 

GV: §äc c©u th¬ thø 2.

Em hiÓu thÕ nµo lµ “ ch¸o bÑ, rau m¨ng”?

GV: H·y nhËn xÐt vÒ b÷a ¨n cña B¸c qua c¸c tõ ch¸o bÑ, rau m¨ng?

Gv: Em hiÓu nh­ thÕ nµo vÒ câu thơ?

HS: Cã thÓ tr×nh bµy 2 c¸ch hiÓu.

– Dï ¨n ch¸o bÑ rau m¨ng nh­ng tinh thÇn CM lóc nµo còng s½n sµng.

– Ch¸o bÑ rau m¨ng lóc nµo còng cã s½n.

Em hiÓu nh­ thÕ nµo vÒ côm tõ “vẫn sẵn sàng ?

– Vẫn sẵn sàng:

– Cuộc sống gian khổ, lương thực, thực phẩm ở đây thật đầy đủ, đầy đủ tới mức dư thừa -> vẫn sẵn sàng.

– Cháo bẹ, rau măng dù kham khổ nhưng lúc nào cũng có, cũng đầy đủ, trở thành món ăn thú vị của người chiến sĩ cách mạng -> thấy nụ cười hóm hỉnh, đùa vui của Bác trước cuộc sống gian khổ thiếu thốn.

GV:HiÓu theo c¸ch thø nhÊt kh«ng sai vÒ ng÷ ph¸p nh­ng ch­a thËt phï hîp víi tinh thÇn chung cña toµn bµi.

GV: Nhận xét về nghệ thuật được sử dụng trong câu thơ và nêu tác dụng của BPNT đó?

GV: Em thÊy giäng ®iÖu cña c©u th¬ ntn ?

GV: Nãi vÒ c/s gian khæ ë P¸c Bã

GV: Cuéc sèng thiÕu thèn gian khæ nh­ng vÉn vui ®ïa, qua ®ã em thÊy B¸c lµ ng­êi nh­ thÕ nµo?

 

GV: Em c¶m nhËn h/a B¸c gièng víi h/a nµo mµ c¸c em ®· ®­îc häc trong th¬ v¨n trung ®¹i?

HS: Tr¶ lêi

GV: Hai c©u th¬ ®Çu gîi m¹ch c¶m xóc trong bµi “C¶nh rõng ViÖt B¾c”cña B¸c còng diÔn t¶  niÒm vui thÝch ,s¶ng kho¸i ®Æc biÖt cña ng­êi:

C¶nh rõng ViÖt B¾c thËt lµ hay

………………………………

R­îu ngät chÌ t­¬i mÆc søc say.

§©y lµ thó l©m tuyÒn còng gièng nh­ c¸c thi nh©n x­a nh­ NguyÔn Tr·i trong bµi “C«n S¬n ca” hay NguyÔn BØnh Khiªm:
Thu ¨n m¨ng tróc ……

……………………..t¾m ao.

 

GV:§äc c©u th¬ thø 3

GV:  Câu 3 là câu chuyển, em hãy chỉ ra sự chuyển mạch của bài thơ?

Câu chuyển: nói về công việc

–                                 Chuyển từ chỗ nói chuyện chổ ở, làm việc, ăn uống sang nói chuyện công việc: dịch sử Đảng.

GV: B¸c dïng h×nh ¶nh nµo ®Ó nãi vÒ ®iÒu kiÖn lµm viÖc?

GV: Tõ “ch«ng chªnh”,lµ tõ lo¹i nµo trong tiÕng ViÖt? Hãy giải thích nghĩa của  từ  này?

Chông chênh là từ láy miêu tả duy nhất trong bài thơ, rất tạo hình và gợi cảm

Ch«ng chªnh: =>Tõ l¸y t­îng h×nh chØ sù kh«ng v÷ng vµng, kh«ng ch¾c ch¾n

GV: Qua ®ã em h×nh dung ntn vÒ n¬i lµm viÖc cña B¸c? =>ThiÕu thèn, gian khæ

GV: H/a bµn ®¸ ch«ng chªnh gîi cho em liªn t­ëng ®Õn ®iÒu g×?

HS: ý nghĩa tượng trưng cho thế lực cách mạng nước ta còn đang trong thời kì khó khăn, trứng nước

GV: Trong ®k khã kh¨n ng­êi vÉn “dÞch sö §¶ng” ®ã mét c«ng viÖc nh­ thÕ nµo?

GV: Nh­ vËy…biÖn ph¸p nghÖ thuËt nµo ®­îc sö dông trong c©u th¬ thø 3? ChØ ra hiÖu qu¶ diÔn ®¹t do bpnt Êy ®em l¹i?

HS:

-§èi ý: §iÒu kiÖn lµm viÖc khã kh¨n/c«ng viÖc quan träng vÎ vang.

-§èi thanh: B»ng/tr¾c.

GV: MC

GV: Phép đối cho em cảm nhận gì về hình ảnh của Bác?

HS: Trả lời.

GV: Ba từ “dịch sử Đảng”  toàn thanh trắc toát lên cái khoẻ khoắn, mạnh mẽ, gân guốc. Trung tâm của bức tranh Pác Bó là hình tượng người chiến sĩ được khắc hoạ chân thực vừa có tầm vóc lớn lao trong tư thế uy nghi, giống như bức tượng đài vị lãnh tụ cách mạng. Bác Hồ đang dịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô làm tài liệu huấn luyện cán bộ, đồng thời cũng chính là đang suy tư, tìm cách xoay chuyển lịch sử cách mạng Việt Nam nơi đầu nguồn, đang đón đợi và chuẩn bị tích cực cho một cao trào đấu tranh mới giành độc lập – tự do cho đất nước.

GV: Từ 3 câu thơ trên và một số hình ảnh em quan sát được,em có nhận xét gì về cuộc sống và con người của Bác?

 

GV: DÉn d¾t: Cuéc ®êi cña B¸c ë hang P¸c Bã khã kh¨n gian khæ nh­ng B¸c vÉn c¶m thÊy nh­ thÕ nµo?

GV:  Sang nghÜa lµ g×?

GV: Theo em,vì sao Bác cảm thấy cuộc sống đầy những gian khổ, thiếu thốn ở hang sâu rừng thẳm lại “thật là sang”?

–                                 Đối với Bác được sống trên chính mảnh đất của quê hương , được thưởng thức các món ăn dân dã do tự nhiên ban tặng , mang đậm bản sắc quê hương,được làm công việc cách mạng là một điều hạnh phúc không gì bằng.

GV: Bình

-§ã lµ niÒm vui v« h¹n cña ng­êi chiÕn sÜ yªu n­íc sau bao nhiªu n¨m xa n­íc, nay ®­îc trë vÒ sèng gi÷a lßng ®Êt n­íc, trùc tiÕp l·nh ®¹o phong trµo c¸ch m¹ng.

-Ng­êi tin ch¾c thêi c¬ gi¶i phãng d©n téc ®ang tíi gÇn.

 

GV: Em có nhận xét gì về vị trí của từ “sang”?

Tác dụng ?

HS: Cuối cùng bài thơ, kết thúc câu cảm thán, vần ang tạo âm điệu vang xa. Kết tinh, tỏa sáng tinh thần của toàn bài.

GV: Bình: Chữ sang có thể coi là nhãn tự,chữ thần của bài thơ. Liên hệ với bài “Chiều tối”

GV: Từ sang đã kết tinh,tỏa sáng tinh thần toàn bài, đó là tinh thần như thế nào?

 

 

GV: Hãy nêu những nét khái quát về nghệ thuật của bài thơ?

 

 

 

 

GV: Khái quát nội dung cơ bản của bài thơ?

 

 

 

 

HS: §äc phÇn ghi nhí SGK

 

 

 

 

 

 

 

 

HS: Thảo luận nhóm

 

 

 

 

 

 

HS: Đọc

I.§äc-T×m hiÓu chung

1.Tác giả :

1.Tác phẩm :

a. Hoàn cảnh ra đời bài thơ

– Bµi th¬ s¸ng t¸c 2/1941 khi B¸c trë vÒ n­íc vµ trùc tiÕp l·nh ®¹o phong trµo c¸ch m¹ng ViÖt Nam. B¸c sèng vµ lµm viÖc t¹i hang P¸c Bã

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

b.Đọc và tìm hiểu chú thích :

 

 

 

 

 

 

c.ThÓ th¬: Thất ngôn tứ tuyệt

 

 

 

d.Bè côc :

+4 phÇn : khai, thõa, chuyÓn, hîp .

+ C¸ch chia kh¸c: chia lµm 2 phÇn

-3 c©u ®Çu: C¶nh sinh ho¹t vµ lµm viÖc cña B¸c ë hang P¸c Bã.

-C©u th¬ cuèi: C¶m nghÜ cña B¸c vÒ cuéc ®êi c¸ch m¹ng.

II.§äc- T×m hiÓu chi tiÕt v¨n b¶n

 

 

 

1. C¶nh sinh ho¹t vµ lµm viÖc cña B¸c ë  P¸c Bã.

 *C©u th¬ thø nhÊt

      S¸ng ra bê suèi tèi vµo hang

-PhÐp ®èi thêi gian, kh«ng gian, ho¹t ®éng.

-NhÞp th¬ 4/3 t¹o 2 vÕ ®èi, sãng ®«i nhÞp nhµng

 

-Giäng ®iÖu tho¶i m¸i

=>NÕp sèng vµ lµm viÖc nÒn nÕp ®Òu ®Æn

 

 

 

 

=>Phong th¸i ung dung, hßa ®iÖu víi nhÞp sèng nói rõng.

*C©u th¬ thø hai

      Ch¸o bÑ rau m¨ng vÉn s½n sµng

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

– PhÐp liÖt kª

– Giäng vui ®ïa hãm hØnh.

 

=> Cuéc sèng kham khæ, thiÕu thèn

 

=>Vui víi cuéc sèng ®¹m b¹c, ung dung, v­ît lªn trªn mäi hoµn c¶nh.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

*C©u th¬ thø 3

 

-Bµn ®¸ ch«ng chªnh dÞch sö §¶ng

 

 

 

 

 

Tõ l¸y t­îng h×nh

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Phép đối: Bàn đá chông chênh ( Điều kiện làm việc rất khó khăn )/ dịch sử Đảng ( Công việc quan trọng ).

 

 

 

=> §iÒu kiÖn lµm viÖc thiÕu thèn nh­ng lµm c«ng viÖc rÊt vÎ vang .

=>T­ thÕ ung dung lu«n lµm chñ hoµn c¶nh .

 

 

 

 

 

 

 

 

=> Yêu thiên nhiên, yêu công việc cách mạng, lạc quan, không ngại khó, làm chủ cuộc sống

2. C¶m nghÜ cña B¸c vÒ cuéc ®êi c¸ch m¹ng.

 

Cuéc ®êi c¸ch m¹ng thËt lµ sang .

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

=>C©u c¶m th¸n, ©m “ang=>NiÒm vui s­íng tù hµo tr­íc cuéc sèng vµ c«ng viÖc n¬i ®©y

 

Tinh thần lạc quan,tin tưởng vào sự nghiệp CM

III. Tæng KÕt

1.Nghệ thuật

-Thể thơ tứ tuyệt bình dị pha giọng vui đùa.

-Sự sáng tạo hình ảnh thơ độc đáo.

-Bài thơ vừa có tính chất cổ điển vừa mang tinh thần thời đại.

2.Nội dung.

Tình yêu thiên nhiên,phong thái ung dung,tinh thần lạc quan của Bác trong cuộc sống cách mạng đầy gian khổ của Bác ở Pác Bó.

·        Ghi nhớ /SGK

IV. LuyÖn tËp

1.So s¸nh thó l©m tuyÒn cña B¸c vµ c¸c nhµ th¬ x­a.

Giống:Yêu thiên nhiên, sống gần gũi, giao hòa với thiên nhiên.

Khác: – Khi vui với thú lâm tuyền, người xưa sống như một ẩn sĩ xa lánh cõi đời.

– Bác vui với thú lâm tuyền nhưng vẫn là một chiến sĩ chiến đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp cứu nước,cứu dân.

2.Tìm những câu thơ nói về cái sang của cuộc đời cách mạng?

 

  1. Cñng cè:

GV khái quát lại nội dung bài học.

Trình bày cảm nhận của em về nhân vật trữ tình trong bài thơ.

  1. Dặn dò:

Học kĩ bài

Xem tr­íc bµi C©u cÇu khiÕn

 

 

III. HIỆU QỦA DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI.

    Sau một thời gian áp dụng sáng kiến, tôi thấy chất lượng học tập của học sinh tiến bộ rõ rệt:

– Học sinh đã nắm được những kiến thức cơ bản về thơ Đường luật (bố cục, vần, đối, nhịp thơ …), biết phân biệt và xác định đúng thể loại thơ cổ thể hay thơ cận thể .Học sinh biết phân tích ý nghĩa giá trị của một bài thơ Đường luật, bước đầu biết phát biểu cảm nghĩ về một bài thơ hay . Đặc biệt đã rèn được kỹ năng so sánh đối chiếu bản nguyên tác, dịch nghĩa, dịch thơ.

– Trong quá trình làm bài các em cũng đã có sự chú ý, bám vào từ ngữ hình ảnh đặc sắc trong bài thơ để làm nổi bật được thần thái của bài thơ . Ngoài ra các nội dung mà các văn bản trên đề cập, cách thể hiện tình cảm của các nhà thơ, học sinh cũng học tập được rất nhiều điều. Đồng thời qua đó còn bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước, cảm phục những tấm lòng cao cả, đức hi sinh của các thế hệ đi trước đã cống hiến cho độc lập tự do của dân tộc. Từ đó giáo viên sẽ tích hợp phần Tập làm văn: Văn biểu cảm.

– Điều quan trọng là học sinh bước đầu tỏ ra rất hứng thú với việc học các bài thơ này . Các em không còn có cảm giác nặng nề, chán nản khi học các bài thơ sáng tác theo thể Đường luật nữa. Các tiết học không khô khan như tôi vẫn thường nghĩ lúc đầu . Nhiều học sinh có cảm nhận rất tốt về các bài thơ có nội dung gần gũi quen thuộc.

 – Tất cả những kết quả đạt được trên sẽ giúp ích cho học sinh rất nhiều khi các em tiếp tục được tiếp xúc với thể loại thể thơ này ở các lớp trên .

   Xin lấy ví dụ cụ thể qua phần kiểm tra đánh giá một bài cụ thể:

Câu hỏi kiểm tra: Vì sao trong bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” Bác Hồ cảm thấy “Cuộc đời cách mạng thật là sang”?

Kết quả bài kiểm tra có sự khác nhau rõ rệt giữa các lớp 8 năm học 2016 – 2017 (khi thực hiện theo phương pháp cũ) với các lớp 8 năm học 2017 – 2018 (Hướng dẫn theo phương pháp mới )  tại trường THCS Tân Khánh. Cụ thể:

                               Thống kê kết quả năm học 2016 – 2017

Lớp Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém Trên trung bình
8A

(37/37)

4 11 12 9 1 27

(73%)

8B

(38/38)

3 10 14 10 1 27

(71,1%)

 

Sau khi áp dụng theo  phương pháp mới, kết quả rất khả quan như sau:

Thống kê kết quả năm học 2017 – 2018

 

Lớp Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém Trên trung bình
8A

(38/38)

8 15 12 3 0 35

(92.1%)

8B

(39/39)

7 14 15 3 0 36

(92,3%)

 

Như vậy có thể nói việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản thơ làm theo thể Đường luật theo cách đã trình bày ở trên đem lại hiệu quả cao hơn, học sinh có hứng thú học tập, ghi nhớ nội dung bài học.

Về phía đồng nghiệp, qua các tiết dự giờ, thăm lớp và trao đổi trong sinh hoạt chuyên môn, đồng nghiệp đánh giá cao phương pháp dạy Ngữ văn của tôi, trong đó có các tiết dạy văn bản thơ Đường luật. Nhiều đồng chí trong tổ đã học phương pháp dạy học này của tôi và nhận xét tiết học nhẹ nhàng, hiệu quả hơn.

  1. CAM KẾT KHÔNG SAO CHÉP HOẶC VI PHẠM BẢN QUYỀN.

Do thời gian có hạn và năng lực chuyên môn còn hạn chế nên trong sáng kiến kinh nghiệm này không thể không có thiếu sót. Bản thân mong được sự lĩnh hội các thông tin đánh giá của Hội đồng khoa học và đồng nghiệp để SKKN này tiềp tục được bổ sung, hoàn thiện. Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Trên đây là báo cáo sáng kiến kinh nghiệm của cá nhân tôi. Tôi cam kết không sao  chép, không vi phạm  bản  quyền của cá nhân khác. Tôi xin  chịu  hoàn  toàn  trách nhiệm trước cơ quan, đơn vị áp dụng sáng kiến và Hội đồng đánh giá nếu phát hiện vi phạm.

 

 

 

 

CƠ QUAN ĐƠN VỊ

ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

(xác nhận,đánh giá, xếp loại)

…………………………………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………………………………

 

 

(Ký tên, đóng dấu)

 

 

                 

 

 

                     TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

            (Ký tên)

 

 

 

              Tống Thị Quyên

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHÒNG GD&ĐT

(xác nhận, đánh giá, xếp loại)

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………